Ngoài
tục lệ đời, người Công Giáo còn có thói quen tốt lành là tham dự Thánh
lễ Giao thừa để tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi và kính nhớ Đức Mẹ.
Người
ta cầu mong nhiều điều cho năm mới, thể hiện qua mâm ngũ quả. Mỗi vùng
miền có thể dùng những loại trái khác nhau. Nhưng kiêng kỵ là các loại
trái có tên gọi “na ná” với từ có nghĩa xấu như cam (cam chịu), chuối
(chúi đầu, chúi mũi, tức là vất vả). Ngược lại, các loại trái ở Nam bộ
được ưa thích như trái thơm (dứa, ý nói thơm tho, danh thơm tiếng tốt),
trái sung (sung túc). Đủ một câu thể hiện sự mong ước khiêm tốn gồm mãng
cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); hơn mức đầy đủ thì gồm mãng
cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung).
Với các Kitô
hữu, Thiên Chúa mới chính là Chúa Xuân đích thực. Ngay từ đầu Thánh lễ,
Giáo Hội dùng lời Kinh thánh để cầu chúc mọi người trong giây phút giao
thừa: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất xuống cho bạn muôn vàn phúc cả từ
Núi Thánh Sion” (Tv 134:3).
Nghi thức nhằm phục vụ con người,
cũng như luật là để phục vụ con người. Đừng câu nệ hình thức mà “bắt”
con người phải phục vụ nghi thức hoặc luật lệ! Đức Chúa truyền cho ông
Môsê phải nói với A-ha-ron và các con về “công thức” chúc lành cho con
cái Ít-ra-en: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức
Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức
Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6:24-26). Sao lại phải
chúc như vậy? Chính Thiên Chúa giải thích: “Chúc như thế là đặt con cái
Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho
chúng” (Ds 6:24-27).
Thật tuyệt vời vì chúng ta luôn được Thiên
Chúa quan tâm, chăm sóc, nâng đỡ, bảo vệ, chúc lành,... Tác giả Thánh
vịnh đã từng thắc mắc: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi
đến tự nơi nao? (Tv 121:1), nhưng tác giả lại xác định ngay: “Ơn phù hộ
tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121:2).
Năm
cũ vừa giã từ, năm mới vừa sang. Chúng ta hãy thành tâm cầu chúc nhau
những điều tốt lành nhất: “Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật
bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt
ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng
vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác
hoạ, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi
điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra
vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời” (Tv 121:3-8).
Giao
thừa nhắc nhở chúng ta xin lỗi Chúa và tha nhân về những lỗi lầm trong
năm cũ, đồng thời cũng phải biết tạ ơn về bao ơn lành từ Thiên Chúa trao
ban suốt năm qua và xin ơn cho năm mới. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em
hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi
hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức
Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18). Và rồi thánh nhân cũng nhắc nhở: “Anh em
đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc
mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì
lánh cho xa” (1 Tx 5:19-22).
Tiếp theo là lời chúc: “Nguyện chính
Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em,
để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì
đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng
kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. Chúc anh
em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Tx 5:23-24
& 28).
Trong cuộc sống, ai cũng khao khát được tận hưởng niềm
hạnh phúc viên mãn. Có nhiều dạng hạnh phúc theo quan niệm của mỗi
người, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, có một điều phúc thật
mà đôi khi chúng ta hay quên hoặc chưa thực sự lưu tâm, đó chính là
điều mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho mọi người: “Phúc thay kẻ lắng nghe và
tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).
Tin Mừng đêm Giao thừa là
trình thuật Mt 5:1-10, nói về Bát Phúc (Tám Mối Phúc Thật, Hiến Chương
Nước Trời, Bài Giảng Trên Núi) đã được Chúa Giêsu công bố lần đầu tiên:
1. Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ, vì Nước Trời là của họ.
2. Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
3. Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
4. Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
5. Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
6. Phúc thay ai có tâm hồn TRONG SẠCH, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
7. Phúc thay ai XÂY DỰNG HOÀ BÌNH, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
8. Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Với
8 điều khoản ngắn gọn mà súc tích, Bát Phúc còn được coi là Đệ Nhất
Tuyên Ngôn, tức là bản tuyên ngôn đầu tiên đối với nhân loại. Người
không có niềm tin vào Thiên Chúa thì không thể nào “chịu nổi” vì cả 8
điều mà Chúa Giêsu cho là PHÚC như vậy, vì tất cả đều “nghịch nhĩ”. Sao
mà “ngược đời” quá! Để có thể sống theo kiểu “ngược đời” của Chúa Giêsu
thì phải cần đến ĐỨC TIN. Và chính ĐỨC TIN chắc chắn sẽ cứu thoát chúng
ta nhờ Danh Đức Giêsu Kitô.
Được trở thành Kitô hữu là một ơn
gọi, là vào đời làm NHÂN CHỨNG cho Tin Mừng của Đức Kitô. Tất nhiên
chúng ta có thể bị ghen ghét và bị hại – đa dạng, lắm kiểu, nhiều dạng.
Thật vậy, Ngài biết trước nên Ngài căn dặn: “Thầy sai anh em đi như
chiên đi vào giữa bầy sói. Hãy khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt
10:16). Con Rắn là loài vừa khôn ngoan vừa xảo quyệt nhất trong các loài
động vật. Chính nó đã lừa được Bà Eva bằng lời đường mật, và rồi Ông
Adam lại “chết” vì mỹ nhân kế của một phụ nữ “yếu đuối” là chính vợ
mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta học cái khôn ngoan của con Rắn chứ đừng
nham hiểm như nó!
Xuân về, Tết đến, ai cũng “khác” từ tinh thần
đến thể lý, cả trong lẫn ngoài. “Khác” là đổi mới, là canh tân tích cực
để tốt hơn chứ không “biến chất”, và phải mãi mãi như Chúa Xuân: “Đức
Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn
đời” (Dt 13:8).
Lạy Chúa, chúng con chúc tụng Cha là Chúa Tể
càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh
Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn; chúng con
xin chúc Tết Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con hướng về Mùa Xuân
Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; chúng con xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để
chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời
của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng
con đi đúng Đường Tốt Lành của Ngài.
Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh
Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn.
Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và ban cho mọi người đều có được niềm
vui Xuân trọn vẹn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Thiên Chúa làm người cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến
muôn đời. Amen.
Mồng Một Tết Nguyên Đán – Cầu bình an
Một
năm đã cũ qua, một năm mới vừa tới. Đó là quy luật tự nhiên bất biết
muôn thuở, vì cái gì cũng có hai “điểm” – khởi sự và kết thúc. Cả hai
“điểm” đó đều là Chúa: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi
Nguyên và Tận Cùng” (Kh 22:13).
Mồng Một Tết là ngày cầu bình an
cho năm mới. Khởi đầu cuộc đời, khởi đầu công việc, khởi đầu hôn nhân,
khởi đầu sự nghiệp,… đặc biệt là khởi đầu năm mới. Tất cả những cái khởi
đầu đều làm người ta cảm thấy lo – lo đủ thứ, đủ kiểu, đủ mức độ. Lẽ
tất nhiên, vì chúng ta không thể chủ động, không biết tương lai ra sao.
Thời gian là của Chúa. Vì vậy mà người ta cần và phải tín thác vào Chúa.
Đó là sống khôn ngoan!
Tại giáo xứ Thánh Gioan Chrysostom ở
Inglewood (California, Hoa Kỳ) có một chiếc đồng hồ lớn. Trên chiếc đồng
hồ đó có khắc chữ “Tempus Fugit” – La ngữ nghĩa là “thời giờ trôi qua”.
Thật là chí lý! Cũng giống như người Việt chúng ta nói: “Thời giờ thấm
thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ đợi ai”. Và hôm nay, mồng Một Tết,
Thiên Chúa động viên mỗi chúng ta: “ĐỪNG LO!” (Mt 6:34).
Mùa Xuân
chỉ là một phần của thời gian. Xuân đến rồi Xuân lại đi. Tác giả Thánh
Vịnh xác định: “Chính Ngài vạch biên cương cho cõi đất, thời hạ, tiết
đông, cũng chính Ngài thiết lập” (Tv 74:17).
Sau mùa Đông giá
lạnh là mùa Xuân ấm áp, mọi vật đều biến đổi, khác lạ, y như được hồi
sinh từ cõi chết vậy. Lạ lắm, đúng như sách Diễm Ca (2:11-12) mô tả, đơn
giản mà tinh tế và khéo léo:
Tiết Đông giá lạnh đã qua
Mùa mưa đã dứt, đã xa lắm rồi
Sơn hà nở rộ hoa tươi
Và mùa ca hát vang trời về đây
Tiếng chim gáy hót mê say
Văng vẳng cả ngày trên khắp đồng quê
Mùa
Xuân là mùa khởi đầu một năm mới, cái vẻ “mới lạ” của mùa Xuân khiến
chúng ta nhớ tới việc sáng tạo của Thiên Chúa từ thuở hồng hoang. Khoảng
thời gian đó được Kinh Thánh cụ thể hóa là sáu ngày, và thêm một ngày
nghỉ nữa là thành một tuần.
Ngày thứ tư trong công trình khai
thiên lập địa, Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời,
để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và
năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất” (St
1:14-15). Tức thì đã xảy ra như vậy.
Kinh Thánh tường thuật chi
tiết: “Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều
khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các
ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt
đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối.
Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” (St 1:16-18). Ngày để làm việc, đêm để
nghỉ ngơi. Thiên Chúa đã tạo cơ hội thuận lợi để chúng ta có thể cân
bằng cuộc sống, nhờ đó mà làm việc có hiệu quả cao nhất. Xin tạ ơn Chúa
Tể càn khôn!
Cuộc sống luôn có những nỗi lo, không nhiều thì ít,
không to thì nhỏ, chẳng ai có thể vô tư. Ngay cả người điên cũng có nỗi
lo riêng của họ, thậm chí người sống thực vật cũng lo – vì họ não và tim
của họ vẫn hoạt động, tức là vẫn sống. Thật vậy, cứ mở mắt ra là thấy
lo rồi. Tuy nhiên, lo là lẽ thường tình của nhân sinh, nhưng đừng lo
quá, vì chúng ta “không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen” (Mt
5:36). Việc nhỏ như vậy còn chưa làm nổi kia mà! Do đó, tác giả Thánh
Vịnh nhắc nhở chúng ta “thoát” ra khỏi cái “vỏ ốc yếu đuối” của mình:
“Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện thì sẽ được ở trong đất nước và
sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ
chí toại lòng. Hãy ký thác đường đời cho Chúa, chính Người sẽ ra tay”
(Tv 37:4-5).
Không chỉ vậy, Chúa còn làm cho chúng ta hơn vậy
nữa: “Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn,
Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ” (Tv 37:6). Tuy nhiên, chúng ta
phải chú ý đến “chính nghĩa” (lẽ phải, sự thật) và “công lý” (công minh,
chính trực). Tức là phải nghiêm túc, rạch ròi, thẳng thắn, chứ đừng “bẻ
cong” hoặc “bóp méo”. Không dễ đâu đấy, thế nên phải can đảm mới khả dĩ
thực hiện.
Tác giả Thánh Vịnh bày tỏ: “Chúa giúp con người bước
đi vững chãi, ưa chuộng đường lối họ dõi theo. Dầu họ có vấp cũng không
ngã gục, bởi vì đã có Chúa cầm tay. Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa
thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ.
Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay, dòng giống mai sau hưởng
phúc lành”(Tv 37:23-26). Mấy câu này làm sáng tỏ mấy câu trên. Rất
lô-gích!
Sống tốt thì người ta an vui, hy vọng cũng làm người ta
vui, và càng an tâm hơn nếu người ta biết phó thác tất cả cho Chúa.
Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi
nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà
rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi
hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày
trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4:4-6). Sống
tín thác cũng là sống “con đường thơ ấu” của Thánh Hoa Hồng Nhỏ Tê-rê-xa
Hài Đồng.
Đây là hệ quả tất yếu dành cho những ai sống tín thác:
“Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ
cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:7). Thánh
Phaolô nhắn nhủ thêm về các đức tính cần thiết để sống tốt lành và đạo
đức: “Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là
chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng
tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4:8).
Chính
xác và rõ ràng nhất là lời khuyên của Đại sư Giêsu: “Đừng lo cho mạng
sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống
chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (Mt
6:25). Một câu nghi-vấn-xác-định thật độc chiêu quá chừng!
Chúa
Giêsu biết chúng ta yếu đuối, chưa đủ tin, nên Ngài phải “dài hơi” giải
thích và đưa ra chứng cớ minh nhiên: “Hãy xem chim trời: chúng không
gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn
nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh
em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn
về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc
lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế
mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột
bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6:26-29). Chúng ta có
thực sự tâm phục khẩu phục chưa?
Ngài nhấn mạnh: “Vậy nếu hoa cỏ
ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho
như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em
đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những
thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em
cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức
công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt
6:30-33). Với sức con người thì khó lắm, nhưng với niềm tín thác, chúng
ta sẽ làm được nhờ Đức Giêsu Kitô.
Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa động
viên vừa khuyến cáo khi Ngài xác định: “Anh em đừng lo lắng về ngày
mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt
6:34).
Giờ đây, ngay giây phút đầu tiên của mùa Xuân, khi hòa
chung niềm vui mừng của muôn loài và cùng nhau ăn Tết, mỗi người chúng
ta hãy ghi nhớ và chân thành thề hứa với Chúa: “Ngày lại ngày, con xin
chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” (Tv 145:2).
Lễ Mồng Hai Tết – Cầu cho Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ: Uống nước nhớ nguồn
Mồng
Hai Tết là ngày cầu cho tiền nhân, những người đã “ra đi” trước chúng
ta, mang tính cách cầu hồn. Tuy nhiên, dù cầu nguyện cho những người đã
khuất bóng, nhưng lại vẫn liên quan chuyện hiếu nghĩa – tức là liên quan
những người thân còn sống với chúng ta dịp Xuân này. Hãy nghe Thánh
Phaolô nói: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng
một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin”
(1 Tm 5:8). Cách so sánh thật “mạnh” khiến chúng ta phải “giật mình”.
Nói
đến hiếu nghĩa, nhiều người ngoại giáo thường nghĩ rằng đạo Công Giáo
không cho thờ kính tổ tiên. Đúng và sai. Đúng vì “không ai được thờ kính
(tôn thờ) bất kỳ thụ tạo nào” (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39;
Đnl 5:7; Đnl 32:39), kể cả tổ tiên, nhưng họ nghĩ sai vì Công Giáo không
chỉ “cho phép” (được) mà còn “bắt buộc” (phải) kính nhớ tổ tiên, các
thân nhân và người có công trạng. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Uống
nước nhớ nguồn”. Như vậy, đừng vội “kết án” Công Giáo khi chưa hiểu rõ!
Cổ
thư nói về đạo hiếu rất hay, tất nhiên cũng phù hợp với tinh thần Kitô
giáo: “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ thứ năng
dưỡng”. Nghĩa là “Đạo hiếu có ba điều: Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ,
hai là không làm nhục cha mẹ, ba là có thể phụng dưỡng cha mẹ”.
Liên
quan đạo hiếu vào dịp Tết, chúng ta nhớ tới chuyện An Tiêm: Vào đời
Hùng Vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong Châu, có một cậu bé mồ
côi thường theo người lớn đi săn thú và đánh cá. Năm tám tuổi, cậu được
lên kinh đô gặp vua Hùng. Thấy cậu thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi
và đặt tên là Mai An Tiêm.
Vua Hùng cưới vợ cho An Tiêm và cho
cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An Tiêm
đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. Thấy thế,
bọn người ghen tị tâu nịnh với vua vì cho rằng An Tiêm coi thường ơn
vua. Vua Hùng giận lắm, không cần tìm hiểu thực hư ra sao, và đày hai vợ
chồng ra hoang đảo.
Cây ngay không sợ chết đứng, vì “người công
chính được Chúa độ trì” (Tv 37:17). Ở hoang đảo, có con chim trắng bay
tới làm rơi hạt đen xuống bãi cát trắng. An Tiêm đem trồng thử hạt này.
Chúng mọc thành những dây bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu
xanh thẫm to bằng đầu người. An Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn
thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có nhiều nước. Loại trái “xanh vỏ, đỏ lòng” đó
chính là trái dưa hấu.
Bài học về chữ hiếu: Dù bị Phụ vương đày
ra hoang đảo, nhưng An Tiêm vẫn giữ trọn đạo hiếu với cha, không hề
trách hờn ai. Về sau, vua Hùng hối hận và phục chức cho An Tiêm.
Và
chắc hẳn nhiều người (tuổi trung niên trở lên) còn nhớ sách “Nhị Thập
Tứ Hiếu”, tác phẩm văn học của tác giả Quách Cư Nghiệp, kể lại gương
hiếu thảo của 24 người con đời nhà Nguyên (Trung Hoa). Chính tác giả
cũng là người con chí hiếu.
Sách Huấn Ca dạy: “Hãy ca ngợi những
vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1).
Đồng thời xác nhận: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý
báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước;
nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ
muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ
yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44:10-14). Do đó,
nhân dân sẽ “kể lại đức khôn ngoan của họ và cộng đoàn vang tiếng ngợi
khen họ” (Hc 44:15).
Thánh Vịnh ca tụng những thành quả của gia
đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của
Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc
nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa
trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv
128:1-3). Tuy nhiên, phúc lộc đó không phải ai cũng có được: “Đó chính
là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Đúng nhu Chúa
Giêsu đã nói chắc: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh
Phaolô phân tích lý do mà con cái phải tuân giữ đạo hiếu: “Kẻ làm con,
hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy
tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi
được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Tuy nhiên,
không phải là làm lớn thì có thể làm láo, là cha mẹ thì có thể độc đoán,
muốn làm gì thì làm, mà cũng phải tuân giữ nghiêm luật và thể hiện tình
yêu thương đúng nghĩa: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức
giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa
dạy” (Ep 6:4).
Cuộc sống đời thường và tâm linh đều có những
điều phức tạp, cần phải biết kết hợp và cân bằng. Thánh Phaolô nói:
“Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van
nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh
thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi
nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi
mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này
cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao
giảng Tin Mừng, tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói” (Ep
6:18-20).
Về đạo hiếu, sách Huấn Ca nhắc nhở những người con:
“Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ
đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy
chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7:27-28). Và Công đồng Vatican II dạy:
“Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo
và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh
cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hiến chế Gaudium et Spes – Mục vụ về
Giáo Hội trong Thế giới Ngày nay, số 48).
Hãy ghi nhớ và noi theo
tấm gương tột đỉnh: Dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng khi mặc xác phàm
và làm con trong một gia đình, Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận làm con
với cha mẹ trong suốt 30 năm (x. Lc 2:51-52).
Không chỉ vậy, Chúa Giêsu còn có phong cách hoàn toàn không giống ai khác. (Mt 15:1-6
Một
hôm, có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức
Giêsu và nói: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không
chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15:2). Đúng là lũ người xấu bụng, chuyên
thọc gậy bánh xe, thích phá rối, ưa gài bẫy, chuyên gia sử dụng loại
phần mềm về “dấu trừ” và “dấu chia”, chứ không rành (hoặc không thích)
sử dụng “dấu cộng” và “dấu nhân”.
Chọc vào ổ kiến lửa thì sẽ “đỏ
người”, chọc tổ ong vò vẽ thì “sáng mắt” ngay thôi. Họ vừa hỏi xong,
Chúa Giêsu liền trả lời một hơi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào
truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế,
Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì
phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ
rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi,
thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào
truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15:4-6).
Tất
nhiên là họ chỉ có nước ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Ai bảo ngu dốt
mà lại chảnh, dám vênh váo “ta đây”, muốn chứng tỏ mình là “ngon” lắm!
Thùng càng rỗng càng kêu to, kêu càng to càng mau… xẹp. Phải thế mới
đáng đời bè lũ Pha-ri-sêu hèn nhát!
Lạy Thiên Chúa, chúng con
chúc tụng Ngài là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi
lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi
ngày mỗi hơn. Chúng con xin tán dương Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng
con biết một lòng hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; xin Chúa
lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con
cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh
hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài.
Xin
Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu
thay cho chúng con luôn, để mai đây chúng con cũng được hợp đoàn và
chung lời với các ngài mà ca tụng Thiên Chúa muôn đời. Nguyện xin Chúa
thương cho mọi người đã hoàn tất đường lữ hành trần gian được niềm vui
Xuân Trường Sinh nơi Thiên Quốc.
Chúng con cầu xin nhân danh
Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con, hiệp nhất
với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Lễ Mồng 3 Tết – Thánh hóa công việc: Trách nhiệm
Mồng
Ba Tết là ngày cầu mùa. Gọi là “cầu mùa” vì Việt Nam là nước nông
nghiệp, cần thời tiết tốt, cần mưa thuận gió hòa. Ngày nay, Việt Nam đã
công ngiệp hóa, nhân dân làm nhiều ngành nghề, nên cần nói chung là
“thánh hóa công ăn việc làm”.
Ngày xưa, đa số dân Việt làm nghề
nông, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất, đầu tắt mặt tối, rất cực nhọc
mà vẫn nghèo khổ. Tuy vậy, dân Việt vẫn dạt dào “máu” văn chương, thế
nên văn học bình dân rất phổ biến câu vè chứa đầy chất tâm linh:
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Người
ta ví von: “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”.
Theo cách phân chia gia cấp thời xưa là: sĩ, nông, công, thương, binh.
Kẻ sĩ coi mình là giới trí thức nên phải “ưu tiên” đứng đầu. Nhưng Việt
Nam là nước nông nghiệp, thế nên nhà nông lại quyết coi mình trọng hơn
nên mình phải là nhất. “Nhất sĩ” nhưng khi bụng đói thì còn “sĩ khí”
được hay là phải “chạy rông” mà cầu mong nhà nông cho mượn gạo? Thế là
lại “nhất nông, nhì sĩ”. Phải chăng kinh tế vẫn quyết định cuộc sống?
Không ăn làm sao sống mà học hành để trở thành “kẻ sĩ” chứ? Có thể lắm,
vì người ta nói: “Có thực mới vực được đạo”. Đạo còn phải nhờ kinh tế,
huống chi đời! Cuộc sống như một vòng lẩn quẩn, khó xác định rạch ròi
cái nào nhất hay nhì. Mỗi người và mỗi thứ đều có một vị trí riêng biệt,
không thể tự mãn mà cho mình hơn người khác!
Thánh Phaolô nói:
“Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban
cho” (Ep 4:7). Thứ tự hoặc cấp bậc do con người đặt ra, chứ đối với Chúa
thì ai cũng như ai: “Kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng
Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Kẻ trồng người tưới đều
như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao theo công khó của mình” 1 Cr
3:7-8). Rõ ràng, không ai có thể ảo tưởng hoặc “chảnh”, nhưng ai cũng
phải có TRÁCH NHIỆM (riêng và chung).
Tất cả là của Chúa, như
Giáo Hội đã xác định: “Chính NHỜ Người, VỚI Người và TRONG Người, mà mọi
chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp
nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời”. Cầu xin Chúa ban cho
mùa màng bội thu và công việc xuôi xắn để an tâm làm bổn phận kính thờ
Thiên Chúa trong từng hơi thở của cuộc sống trần gian này.
Thiên
nhiên giúp con người tạo phương tiện sinh sống, đó cũng là trách nhiệm
với chính bản thân. Sách Sáng Thế nói về thời tiết và mùa màng: “Ngày
Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng
nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Đức Chúa là
Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai.
Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất” (St
2:5-6).
Thiên Chúa tạo phương tiện sống trước rồi mới tạo dựng
con người: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi
sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7). Nhưng
con người phải biết vâng lời, vì vâng lời là thể hiện lòng biết ơn:
“Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và
đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Đức Chúa là Thiên Chúa khiến
từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây
trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2:8-9).
Thiên Chúa biết mọi thứ, ngay cả khi con người có ý định, vì thế Ngài
không cần thử thách (chứ không phải như chúng ta thường nói vậy), nhưng
Ngài muốn con người biết rằng thụ tạo phải tuân phục Tạo Hóa (Tạo Vật),
vì “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9).
Thế nhưng
tạo vật lại “chảnh”, kiêu căng ngạo mạn, quá ngang ngược, coi thường
trách nhiệm của mình. Đúng là vừa dại dột vừa ngu xuẩn vì “cóc mà muốn
bằng bò”, như triết gia Pascal nói: “Con người không là thiên thần, cũng
không là thú vật, nhưng ai muốn làm thiên thần thì sẽ trở thành thú
vật”.
Thiên Chúa đã “đem con người đặt vào vườn Ê-đen để cày cấy
và canh giữ đất đai” (St 2:15). Cơ ngơi bao la, cho làm chủ các thụ tạo
khác, được sướng mà không biết hưởng. Nói về những người không muốn chịu
trách nhiệm, ưa nhà hạ, chuyên gia lười biếng, Thánh Phaolô nói: “Ai
không chịu làm thì cũng đừng ăn!” (2 Tx 3:10).
Hãy tự kiểm điểm
bản thân để có thể biết mình sai mà biết noi gương tác giả Thánh Vịnh
thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả! Ngài
khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho
người thế hưởng dùng” (Tv 104:1a & 14ab). Rõ ràng Chúa làm mọi thứ
để chúng ta tận hưởng.
Có cực khổ mới quý sự thanh thản, có bị tù
rồi mới hiểu rõ giá trị của tự do, có bị áp bức rồi mới chân nhận giá
trị của công lý, có vất vả làm lụng thì mới cảm thấy ngon miệng khi ăn
uống: “Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi
lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi, nhờ cơm bánh mà no
lòng chắc dạ” (Tv 104:14b-15). Mưu sinh nuôi thân là trách nhiệm, nhờ
lương thực phần xác mà sống khỏe để thực hiện trách nhiệm về tâm linh.
Muông
thú cũ là thụ tạo của Chúa, chúng cũng phải mưu sinh để sinh tồn và cầu
xin Chúa: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối, chốn rừng sâu, muông thú
tung hoành. Tiếng sư tử gầm lên vang dội, chúng săn mồi, gào xin Chúa
cho ăn. Ánh dương lên, chúng bảo nhau về, tìm hang hốc, chui vào nằm
nghỉ” (Tv 104:20-22). Tất nhiên con người cũng phải vậy, nghĩa là tích
cực làm trọn trách nhiệm sống của mình: “Đến lượt con người ra đi làm
lụng, những mải mê tới lúc chiều tà” (Tv 104:23).
Thánh Phaolô
tâm sự: “Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân
sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần
gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến. Vàng bạc hay
quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham” (Cv 20:32-33). Ham cái gì của
người khác là tham lam, tức là liên quan giới răn thứ bảy: “Chớ lấy của
người”.
Thánh Phaolô bày tỏ thêm: “Chính anh em biết rõ: những gì
cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự
cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau
yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã
dạy: CHO thì có phúc hơn là NHẬN” (Cv 20:34-35).
Chúa Giêsu đã
dặn dò: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Thầy là cây
nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì
được” (Ga 15: 4a & 5). Có Chúa thì chúng ta có thể làm được cả những
việc khó mà chúng ta ngỡ như không thể. Trách nhiệm với Thiên Chúa,
trách nhiêm với tha nhân, trách nhiệm với bản thân, nào cũng khó, nhưng
tất cả sẽ hóa đơn giản và dễ dàng nếu chúng ta làm chỉ vì sáng danh Chúa
và cứu các linh hồn chứ không vì bất kỳ thứ gì khác.
Trình thuật Phúc Âm hôm nay nói rõ đến trách nhiệm qua dụ ngôn “những yến bạc” (Mt 25:14-30).
Có
người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho
họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một
yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh
năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến
khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn
người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một
thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ
sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và
nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm
yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi
và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao
nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”. Người đã lãnh
hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai
yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy:
“Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã
trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui
của chủ anh!”. Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa
ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi
không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới
đất. Của ông đây, ông cầm lấy!”. Ông chủ đáp: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và
biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì
đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi
thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó
mà đưa cho người đã có mười yến”.
Có hai loại người: Người cần cù
(có trách nhiệm) và kẻ lười biếng (vô trách nhiệm). Loại người thứ nhất
cứ chăm chỉ làm việc, sinh lời nhiều hay ít cũng được, Chúa không đặt
thành vấn đề, vì khả năng mỗi người khác nhau theo số “nén” Chúa trao.
Đó cũng là “định mệnh” của mỗi người. Họ là những tôi trung đáng khen vì
đã dùng hết khả năng. Còn loại người thứ nhì thì sống ung dung tự tại,
quen thói lười biếng, thích “ngồi mát ăn bát vàng”, nhưng lại ưa “chỉ
tay năm ngón”, khoái ra lệnh, muốn ra vẻ “ta đây”, bép xép, lẻo mép mà
làm chẳng được tích sự gì. Loại người này làm băng hoại xã hội và Giáo
Hội, rất nguy hiểm. Hãy tránh cho xa!
Nghe có vẻ rất “nghịch lý”
và “chói tai” khi Chúa Giêsu bảo: “Ai đã có thì được cho thêm và sẽ có
dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi” (Mt
25:29). Thế nhưng suy cho cùng, cái nghịch lý đó lại là thuận lý, nói
cho gọn là nghịch-lý-thuận.
Thật tốt phúc nếu chúng ta là người
sống có trách nhiệm, biết chăm chỉ và cần mẫn như loài ong, nhưng nếu
chúng ta lười biếng thì thật là vô phúc, vì chúng ta sẽ trở thành “tên
đầy tớ vô dụng”, và Chúa sẽ thẳng thắn trừng trị ngay: “Hãy quăng nó ra
chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25:30).
Lạy
Chúa, cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con mùa Xuân tuyệt vời. Xin cho mọi
người đều có công ăn việc làm ổn định để an tâm thờ phượng Ngài, và xin
thánh hóa những gì chúng con làm để sáng danh Cha. Xin giúp chúng con
nhận ra Ý Ngài trong từng công việc, để chúng con có thể sinh lời theo
số nén Ngài đã trao. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Thiên Chúa làm người cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến
muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét